Quy tắc xuất xứ trong TPP – Cơ hội và thách thức cho hàng xuất khẩu Việt

Có thể nói, trong năm 2013, Hiệp định Hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – TPP) là một trong những chủ đề kinh tế đang được DNVN rất quan tâm. Một câu hỏi đặt ra là liệu Hiệp định TPP sẽ mang lại các DNVN những cơ hội và thách thức gì trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có nhiều khó khăn và DNVN còn gặp rất nhiều trở ngại trong việc đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới như hiện nay.

SƠ LƯỢC VỀ TPP

Việt Nam chiếm tỷ trọng xuất khẩu thế nào trong các nước TPP

Hiệp định TPP là hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hiệp định này được ký kết ngày 3.6.2005, có hiệu lực từ 28.5.2006 giữa 4 nước Singapore, Chile, New Zealand, Brunei (Hiệp định này còn gọi là P4). Từ năm 2010, có thêm 5 nước tham gia đàm phán gồm: Mỹ, Australia, Peru, VN và gần đây là Malaysia.

Ngoài 9 nước vừa kể trên, hiện nay có 4 nước bày tỏ quan tâm và có thể tham gia trong thời gian tới là Nhật Bản, Thái Lan, Philippines và Indonesia. Vì vậy, TPP là một hiệp định của thế kỷ 21, không chỉ vì đây là hiệp định lớn mà còn ở tầm vóc và ảnh hưởng của nó. Về phạm vi, so với các hiệp định BTA, AFTA, và trong WTO, TPP mở rộng hơn, cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn là các vấn đề phi thương mại như mua sắm chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ… Với tầm vóc như vậy, các cam kết trong TPP sẽ sâu rộng hơn, toàn diện hơn, và dự báo ảnh hưởng sẽ rất lớn. Đó là điểm khác biệt cơ bản của TPP so với các Hiệp định song phương và đa phương trước kia mà VN đã ký kết.

Nhìn ở góc độ VN với vị thế một nước đang phát triển, trong khi các thành viên còn lại đa số là nước phát triển, cho thấy tính chất mở của TPP là nhằm mục đích cho các nước có mức độ phát triển khác nhau nhưng cố gắng có một mẫu số chung là để cùng phát triển.

Trong đó, phạm vi điều chỉnh của TPP có các nội dung chủ yếu sau: Cắt giảm thuế quan theo lộ trình từ 2006 đến 2015, Các vấn đề thương mại phi thuế quan như xuất xứ hàng hóa, các biện pháp phòng vệ thương mại, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, sở hữu trí tuệ, mua sắm công, chính sách cạnh tranh, các vấn đề phi thương mại như hợp tác trong lĩnh vực môi trường, lao động, nhưng chưa bàn đến các vấn đề đầu tư, dịch vụ tài chính.

QUY TẮC XUẤT XỨ TRONG TPP

Nhân Viên Xuất Khẩu Nông sản

Nếu tận dụng được những ưu đãi mà TPP mang lại, các DN cần nắm rõ mọi quy tắc trong TPP, và đặc biệt là quy tắc xuất xứ được các chuyên gia kinh tế xem là chìa khóa vàng của TPP.

Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP được hiểu là: các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên khác đều phải có xuất xứ “nội khối”. Như vậy, những ngành nào, sản phẩm nào, sử dụng các nguyên liệu của các nước thứ ba, ngoài thành viên TPP đều không được hưởng các ưu đãi thuế suất 0%. Thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hóa trong hiệp định thương mại tự do khác, chúng ta chỉ phải đáp ứng quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa. Chẳng hạn, để sản xuất được mũ giày thì chúng ta được phép nhập khẩu tất cả các nguyên phụ liệu mà không trùng với mã HS của mũ giày đó, từ bên ngoài khu vực mậu dịch tự do. Hơn 50% DNVN hiện đã đáp ứng được nguyên tắc này. Tuy nhiên, trong hiệp định TPP này lại có thêm quy định về hàm lượng giá trị khu vực; nghĩa là sản phẩm phải đạt tỷ lệ nội địa hóa từ 55% tổng giá trị trở lên. DN chỉ được phép nhập tối đa 45% nguyên vật liệu từ các nước ngoài khối để sản xuất ra một sản phẩm, kể cả chi phí gia công.

Như vậy, theo những đề xuất về xuất xứ hàng hóa trong TPP, thì chúng ta có thể hiểu là các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên TPP khác đều phải có xuất xứ “nội khối TPP”. Ví dụ, vải từ VN xuất khẩu vào các thành viên TPP khác, phải có xuất xứ của VN hoặc có xuất xứ từ các thành viên khác TPP. Khi đó các sản phẩm này mới được hưởng các ưu đãi mà các thành viên TPP dành cho nhau. Như vậy, những ngành nào, sản phẩm nào, sử dụng các nguyên liệu của các nước thứ ba, ngoài thành viên TPP đều không được hưởng các ưu đãi nói trên.

Ở đây, nếu TPP được ký kết với qui tắc xuất xứ nội khối như trên thì các DNVN muốn hưởng các ưu đãi trong TPP chỉ có thể chọn 2 hướng đi sau: 1, Những ngành gia công chế biến như dệt may, da giày, điện tử, gỗ… hiện nay đang nhập khẩu từ các nước thứ 3 ngoài TPP cần được rà soát lại để tăng cường sử dụng các nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu các nguyên liệu của các nước trong TPP. 2, Những ngành sản xuất hiện nay ở trong nước cũng cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh với các hàng hóa từ các nước TPP, sẽ được hưởng những ưu đãi rất lớn khi nhập khẩu vào VN.

Đối với VN, mục tiêu lớn nhất khi tham gia TPP là tăng cường lợi thế xuất khẩu sang các nước TPP, thông qua việc các nước này miễn hoặc giảm thuế cho hàng hóa VN. Tuy nhiên, điều này chỉ đạt được nếu hàng hóa của VN đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cao và phức tạp về quy tắc xuất xứ, bắt buộc phải có nguyên liệu hoặc giá trị chủ yếu từ các nước thành viên. Trong khi đó, việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu của VN lại phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài TPP (như Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước ASEAN).

Dễ dàng nhận thấy, 12 nước nằm trong TPP đang được xem là khối thị trường đầy tiềm năng với 790 triệu dân, có tổng GDP 27 ngàn tỷ USD, đóng góp 40% GDP toàn cầu, chiếm 1/3 tổng kim ngạch toàn cầu, nếu đàm phán thành công VN kỳ vọng sẽ được hưởng lợi rất nhiều do hàng hóa của VN xuất khẩu vào Mỹ và các nước tham gia đàm phán ký kết Hiệp định TPP sẽ được cắt giảm gần như toàn bộ 100% thuế quan sẽ mở ra cơ hội lớn cho xuất khẩu. Tuy nhiên, với năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại cho các DNVN. Có thể nói, quy tắc xuất xứ của TPP vừa là thách thức, vừa là một cơ hội đối với các ngành sản xuất hàng xuất khẩu của VN. Nếu vượt qua được thách thức, khai thác được cơ hội, VN sẽ sớm vượt qua được thực trạng là một nước gia công đơn giản, chủ yếu là sử dụng lao động giá rẻ.

Lê Thị Ánh Tuyết
VLR