Dịch vụ Logistics – ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện

Tạp chí GTVT – Các điều kiện về kinh doanh, đầu tư dịch vụ logistics là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước quản lý một cách hiệu quả hơn về ngành này.

Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực từ ngày 01/7/2015 quy định rõ ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Điều 7 của Luật quy định ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là “ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” và “Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện được quy định tại Phụ lục 4 của luật này”. Kinh doanh dịch vụ logistics, mục số 61, trong số 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Điều kiện đầu tư kinh doanh với ngành, nghề được quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND, UBND các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh. Chính phủ quy định chi tiết việc công bố và kiểm soát điều kiện đầu tư kinh doanh.

Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics được quy định tại Nghị định 140/2007/NĐ-CP, ngày 5/9/2007 “Quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc”. Nghị định này đang được Bộ Công thương trình Chính phủ xem xét việc sửa đổi bổ sung để phù hợp với việc thực hiện các cam kết của Việt Nam khi WTO và tiến trình hội nhập sâu rộng hiện nay của nước ta. Hy vọng trong Quý I/2017 nghị định mới ra đời thay thế Nghị định 140/2007.

Ngoài Nghị định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 160/2016/NĐ-CP, ngày 29/11/2016 về Điều kiện kinh doanh vận tải biển, kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển và dịch vụ lai dắt tàu biển. Nghị định này sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2017 và thay thế cho Nghị định số 30/2014/NĐ-CP, ngày 14/4/2014 của Chính phủ về Điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển và dịch vụ hỗ trợ vận tải biển.

Mục đích của Nghị định số 160/2016/NĐ-CP ra đời nhằm quy định chi tiết những điều khoản có liên quan của Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2017. Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực từ ngày 01/7/2015. Vì vậy, Nghị định đã quy định rõ ràng hơn các điều kiện kinh doanh về tổ chức bộ máy, tài chính và nhân lực… so với Nghị định 30/2014/NĐ-CP và phù hợp với tiến trình hội nhập sâu rộng của nước ta khi thực hiện đầy đủ các cam kết của Việt Nam về dịch vụ vận tải biển trong ASEAN và WTO, tiến tới thực hiện các cam kết trong TPP và các FTA thế hệ mới, qua đó tạo ra một môi trường pháp lý minh bạch và bình đẳng cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải biển trong nước cũng như nước ngoài tại Việt Nam.

Về điều kiện kinh doanh vận tải biển: Nghị định nêu rõ các điều kiện về tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính, tàu thuyền, thuyền viên đối với doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh vận tải biển quốc tế và kinh doanh vận tải nội đia, điều kiện đối với tổ chức nước ngoài tham gia vận chuyển nội địa bằng tàu thuyền mang cờ quốc tịch Việt Nam.

Nghị định lần này có quy định rõ điều kiện đối với tổ chức nước ngoài tham gia vận chuyển nội địa bằng tàu thuyền mang cờ quốc tịch Việt Nam, đây là điểm mới. Tổ chức nước ngoài tham gia vận tải nội địa (cabotage) bằng tàu biển mang cờ Việt Nam phải thành lập doanh nghiệp liên doanh theo quy định, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 49% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Thuyền viên nước ngoài làm việc trên tàu không vượt quá 1/3 định biên, thuyền trưởng hoặc thuyền phó nhất định phải là công dân Việt Nam…

Về điều kiện kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển: Nghị định vẫn giữ quy định trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển, tỷ lệ phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 49% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Nghị định quy định nhân viên đại lý tàu biển phải là công dân Việt Nam và được cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ chuyên môn về đại lý tàu biển, đây là điểm cần được chú ý.

Về điều kiện kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển tại Việt Nam: Trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển, tỷ lệ phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 49% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh phải có tối thiểu một tàu lai dắt và thuyền viên làm việc trên tàu phải là thuyền viên Việt Nam. Nghị định lần này quy định rõ điều kiện cho phép tổ chức nước ngoài sử dụng tàu biển mang cờ quốc tịch nước ngoài để kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển tại Việt Nam khi tàu lai dắt mang quốc tịch Việt Nam không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định. Nghị định cũng quy định về điều kiện an toàn, an ninh hàng hải và bảo vệ môi trường; thuyền viên phải có chứng chỉ chuyên môn, phải ký hợp đồng lai dắt và tổ chức nước ngoài phải có chi nhánh hoặc văn phòng đại diện hoặc doanh nghiệp lai dắt Việt Nam được ủy quyền tại Việt Nam.

Các điều kiện về kinh doanh, đầu tư dịch vụ logistics là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan quản lý một cách hiệu quả hơn về ngành Dịch vụ logistics – ngành đang có nhiều cơ quan nhà nước quản lý, qua đó tạo thuận lợi hơn nữa cho việc phát triển ngành dịch vụ quan trọng, mang lại nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế nói chung và thương mại nói riêng

NGUYỄN TƯƠNG