Luật Hải quan năm 2014 (có hiệu lực từ 1-1-2015) đã có những quy định để quy trình thủ tục hải quan đơn giản, hài hòa, thống nhất, giảm thời gian thông quan, chi phí và thủ tục hành chính, giấy tờ cho DN. Trên cơ sở đó, Tổng cục Hải quan đang hoàn thiện dự thảo Thông tư quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế XK, thuế NK và quản lý thuế đối với hàng hóa XK, NK.
Sẽ bãi bỏ một số thủ tục không cần thiết
Theo ban soạn thảo, dự thảo Thông tư được xây dựng trên cơ sở gộp nội dung của 9 Thông tư. Trong đó, sẽ bãi bỏ một số thủ tục và đơn giản hóa thủ tục hải quan như: Hồ sơ hải quan; thủ tục thành lập các địa điểm; bộ hồ sơ hoàn thuế, không thu thuế, hồ sơ miễn thuế.
Về hồ sơ hải quan, đối với hàng XK về cơ bản sẽ chỉ còn tờ khai hải quan, bãi bỏ quy định nộp các loại chứng từ khác như: Hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng ủy thác XK (nếu XK ủy thác) đối với hàng hóa XK có thuế XK, hàng XK có yêu cầu hoàn thuế, không thu thuế, hàng hóa có quy định về thời điểm liên quan đến hợp đồng XK; Hóa đơn XK đối với hàng hóa XK có thuế XK; Bảng kê chi tiết hàng hoá đối với trường hợp hàng hoá có nhiều chủng loại hoặc đóng gói không đồng nhất…
Đối với hồ sơ hàng NK, một số loại chứng từ cũng sẽ được bãi bỏ như hợp đồng mua bán hàng hóa NK; chứng thư giám định đối với hàng hóa được thông quan trên cơ sở kết quả giám định… Việc bãi bỏ các chứng từ như hợp đồng mua bán hàng hóa NK là do các thông tin cơ bản liên quan đến khai hải quan trên hợp đồng đã có trên hóa đơn thương mại, vận đơn nộp cho cơ quan Hải quan (như: Tên hàng, đơn giá, trị giá, điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán…). Do vậy, không yêu cầu DN phải nộp chứng từ này. Trong trường hợp phải tham vấn giá, người khai hải quan phải xuất trình các chứng từ để chứng minh mức giá khai báo với cơ quan Hải quan.
Các thủ tục thành lập địa điểm cảng nội địa; địa điểm tập kết, kiểm tra hàng hóa XK, NK ở biên giới; kho ngoại quan cũng sẽ được đơn giản hơn về các chứng tờ phải nộp.
Nhiều giấy tờ được miễn
Dự thảo Thông tư hướng đến việc đơn giản hóa bộ hồ sơ hoàn thuế, không thu thuế, hồ sơ miễn thuế.
Theo đó, quy định rõ về việc không thu, không hoàn trả đối với các trường hợp có số tiền thuế dưới 50.000 đồng theo lần làm thủ tục xét miễn thuế, xét giảm thuế, hoàn thuế, không thu thuế cho một số hồ sơ hải quan. Theo quy định hiện hành thì các trường hợp này được hoàn trả hoặc người nộp thuế phải nộp đủ cho cơ quan Hải quan, tuy nhiên, do số tiền thuế ít, phần lớn người nộp thuế không thực hiện việc nộp hoặc có nhu cầu đề nghị hoàn trả dẫn đến số dư nợ thuế treo trên Hệ thống kế toán thuế của Hải quan, không thanh khoản được, gây phức tạp cho công tác quản lý; mặt khác, việc thực hiện các thủ tục hành chính cũng gây tốn kém chi phí, thời gian hơn số tiền thuế trên. Do vậy, Tổng cục Hải quan đề xuất đối với các trường hợp này cơ quan Hải quan thực hiện thủ tục xét miễn, xét giảm, hoàn, không thu thuế theo quy định tại Thông tư này, nhưng không thu, không hoàn trả số tiền thuế đó.
Về hồ sơ xét miễn thuế, xét giảm thuế, hoàn thuế, không thu thuế; hồ sơ đề nghị xử lý tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa; hồ sơ đề nghị gia hạn nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; hồ sơ nộp dần tiền thuế nợ; hồ sơ đề nghị xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt quy định tại Phần V Thông tư 128/2013/TT-BTC, không yêu cầu DN nộp: Tờ khai hải quan hàng hóa XK, NK; tờ khai hải quan có kết quả kiểm hóa (cơ quan Hải quan tra cứu, kết xuất, kiểm tra thông tin trên hệ thống của hải quan); Bảng kê chứng từ thanh toán qua ngân hàng; Bảng kê các tờ khai XK sản phẩm; Bảng kê Danh mục tài liệu hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm, hoàn thuế, không thu thuế.
Dự thảo Thông tư cũng đưa ra các quy định đơn giản hóa, cụ thể các chứng từ, hồ sơ phải nộp. Nếu như trước đây Thông tư 128/2013/TT-BTC quy định hồ sơ thuế là hồ sơ hải quan, tuy nhiên, qua đối chiếu hồ sơ hải quan quy định tại Điều 12 Thông tư 128/2013/TT-BTC, các chứng từ này đã có trong hồ sơ lưu tại cơ quan Hải quan nên không quy định phải nộp trong hồ sơ xét miễn thuế, miễn thuế, giảm thuế như: Bảng kê chi tiết hàng hóa, kết quả kiểm tra về chất lượng về an toàn thực phẩm, về kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật, giấy phép NK hàng hóa, giấy phép NK,…). Mặt khác, tại dự thảo cũng bãi bỏ việc quy định không rõ ràng về các chứng từ phải nộp trong hồ sơ xét miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, không thu thuế, như: các chứng từ có liên quan, giấy tờ khác chứng minh lý do yêu cầu hoàn thuế, không thu thuế,…
Về hồ sơ hoàn thuế đối với số thuế đã nộp thuế NK nhưng tái xuất vào khu phi thuế quan, dự thảo Thông tư dự kiến bãi bỏ quy định người nộp thuế phải nộp: Kết quả báo cáo nhập – xuất – tồn; tờ khai hải quan hàng XK; bảng tổng hợp số lượng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận chuyển thực tế sử dụng trong khu phi thuế quan có xác nhận của cơ quan Hải quan của DN trong khu phi thuế quan. Vì theo quan điểm của ban soạn thảo, quy định tại Nghị định 87/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế XK, thuế NK thì quan hệ giữa nội địa với khu phi thuế quan là quan hệ XNK, hàng hóa đưa vào khu phi thuế quan được coi như đã XK; mặt khác, việc yêu cầu người nộp thuế phải có các chứng từ của DN trong khu phi thuế quan để được hoàn thuế là không phù hợp; trường hợp hàng hóa thẩm lậu vào nội địa thì DN trong khu phi thuế quan phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Dự thảo Thông tư quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế XK, thuế NK và quản lý thuế đối với hàng hóa XK, NK dự kiến bãi bỏ một số thủ tục hải quan như: Thay tờ khai hải quan tại Điều 15 Thông tư 128/2013/TT-BTC. Thủ tục hải quan đối với phương tiện vận tải XK, NK (Điều 62 Thông tư 128/2013/TT-BTC); Thủ tục hải quan đối với hàng hóa XK, NK không nhằm mục đích thương mại (Phần III Thông tư 128/2013/TT-BTC). Bãi bỏ các thủ tục hải quan quy định tại Thông tư 45/2011/TT-BTC năm 2011 của Bộ Tài chính quy định thủ tục hải quan đối với hàng hóa vận tải đang phương thức quốc tế, gồm: Thủ tục hải quan đối với hàng hóa vận chuyển từ nước ngoài đến Việt Nam và giao trả hàng hóa cho người nhận hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam và thủ tục hải quan đối với hàng hóa vận chuyển từ nước ngoài đến Việt Nam và giao trả hàng hóa cho người nhận hàng trong lãnh thổ Việt Nam. |