Thông qua việc phân tích, so sánh các số liệu từ nguồn số liệu của thống kê Việt Nam và thống kê Liên hợp quốc (UN-COMTRADE), Tổng cục Thống kê đã lý giải chính thức về chênh lệch số liệu xuất – nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc.
Dây chuyền đóng gói sản phẩm tại nhà máy của một công ty Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Ảnh: An Hiếu – TTXVN |
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2014, Việt Nam thống kê con số xuất khẩu sang Trung Quốc thấp hơn 5 tỷ USD so với Tổng cục Thống kê Trung Quốc.
Bà Lê Thị Minh Thủy, Vụ trưởng Vụ Thống kê thương mại và dịch vụ (Tổng cục Thống kê) cho biết, chênh lệch này chủ yếu là máy móc thiết bị, điện thoại, điện tử, linh kiện. Nguyên nhân là hàng hóa Việt Nam lắp ráp tại Việt Nam thì lại quay về nước gia công, rồi lại xuất sang Trung Quốc. Vậy là Việt Nam không phải nước xuất, nhưng tại tính cho Việt Nam vì xuất xứ hàng hóa.
Bên cạnh đó, theo bà Thủy, toàn bộ chênh lệch về con số thống kê nhập khẩu vào Việt Nam giữa hai nước chưa thể khẳng định đó là do nhập lậu dù có sự chênh lệch khá lớn ở một số mặt hàng như dệt may, hoa quả, hàng tiêu dùng… vì không loại trừ, có những mặt hàng như hàng tiêu dùng Trung Quốc nhập từ nước khác, sau đó mặt hàng này lại xuất vào Việt Nam và Việt Nam lại tính là xuất xứ từ nước khác.
“Bên cạnh đó còn luồng hàng không thuộc phạm vi thống kê. Như về nhóm phụ tùng, thiết bị, chúng tôi cho rằng do nguyên tắc xuất xứ thì lớn hơn”, đại diện Tổng cục Thống kê cho biết.
Tổng cục Thống kê đã lưu ý đến việc xuất nhập khẩu lậu, nhưng việc nhập lậu đó lượng hàng hóa là bao nhiêu thì chưa có con số. Bà Thủy cho biết, theo quan điểm của tổng cục, 20 tỷ USD không phải là nhập lậu, nhưng để lượng hàng hóa bao nhiêu thì lại phải có các nguồn và ước tính như thế nào.
Từ những so sánh, phân tích trên và thực tế thị trường Việt Nam, có thể lý giải chênh lệch số liệu nhập khẩu của Việt Nam và xuất khẩu của Trung Quốc là do một số nguyên nhân như khác biệt phương pháp thống kê nước đối tác.
Bởi xuất khẩu thống kê theo “nước cuối cùng hàng đến”, nên trường hợp hàng Trung Quốc – bao gồm hàng xuất xứ Trung Quốc, hoặc xuất xứ nước khác – đưa sang Việt Nam được Trung Quốc thống kê là xuất cho Việt Nam trong khi Việt Nam chỉ thống kê những hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc, các hàng hóa có xuất xứ nước khác được thống kê là nhập khẩu từ nước khác.
Đồng thời, nguyên nhân có thể là do phạm vi thống kê: một số luồng hàng từ Trung Quốc vào Việt Nam, nhưng không thuộc phạm vi thống kê. Cụ thể là: hàng tạm nhập tái xuất, quá cảnh hoặc chuyển khẩu từ Trung Quốc, Hong Kong.
Do lợi thế về khoảng cách gần giữa Việt Nam – Hong Kong, luồng hàng giữa Trung Quốc và Hong Kong có thể được vận chuyển qua Việt Nam với thủ tục về tạm nhập, tái xuất, quá cảnh hoặc chuyển khẩu. Việt Nam không thống kê, nhưng Trung Quốc và Hong Kong thống kê là xuất khẩu với nước hàng đến là Việt Nam.
Ngoài ra, còn do xác định trị giá thống kê khác nhau. Hai nước cùng áp dụng nguyên tắc xác định trị giá hải quan, nhưng với một số trường hợp, Hải quan Trung Quốc và Việt Nam có thể xác định trị giá lô hàng cao thấp khác nhau; hoạt động nhập khẩu lậu vào Việt Nam.
Cơ quan thống kê trung ương cũng cho biết, cũng như hầu hết các nước khác, hàng nhập khẩu lậu không nằm trong phạm vi thống kê của Việt Nam. Với biên giới đường bộ dài, khó kiểm soát, hàng hóa được nhập lậu từ Trung Quốc vào Việt Nam qua đường tiểu ngạch, cư dân biên giới như rau quả, quần áo và trang phục, giày dép, đồ dùng gia đình…
Nếu phía Trung Quốc kiểm soát tốt hoạt động này bên kia biên giới, thì hàng hóa được tính trong xuất khẩu của Trung Quốc, song lại không nằm trong thống kê nhập khẩu của Việt Nam. “Có một vài nước thực hiện ước tính con số này trong số nhiều “hoạt động kinh tế ngầm”, Tổng cục Thống kê cho hay.
Không những thế, do gian lận thương mại, nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt với các hàng hóa chịu thuế, đã thông đồng với doanh nghiệp đối tác khai giá thấp để hưởng mức thuế thấp. Ngược lại các doanh nghiệp Trung Quốc cũng có thể khai trị giá xuất khẩu cao để hưởng thuế khấu trừ cao.
Ngoài ra, sự lẫn lộn giữa hàng hóa và dịch vụ xuất – nhập khẩu trong thống kê. Theo đó, một số sản phẩm có thể được Việt Nam tính vào dịch vụ, nhưng Trung Quốc coi là hàng hóa, đặc biệt là các sản phẩm có liên quan đến công nghệ thông tin như phần mềm, trò chơi điện tử vốn được lưu giữ trên băng, đĩa mềm. Trong nhiều trường hợp ranh giới phân biệt không rõ ràng nếu người khai hải quan không mô tả rõ.
Như vậy, để lượng hóa được các nguyên nhân, kinh nghiệm các nước cho thấy, cần có sự phối hợp rà soát, phân tích số liệu một cách chi tiết giữa hai bên.
Tổng cục Thống kê cũng đề xuất, vì Trung Quốc là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, tuyến biên giới đường bộ dài, nên cần đề xuất thành lập nhóm công tác do hải quan hai nước phối hợp, có sự tham gia của các ngành liên quan thực hiện rà soát số liệu, chính sách thương mại… để hiểu rõ hơn về nội hàm số liệu thống kê và sử dụng cho các mục tiêu lập chính sách, đầu tư, nghiên cứu.
Đồng thời có các biện pháp hiệu quả trong việc quản lý các luồng hàng hóa có liên quan đến Trung Quốc, kiểm soát buôn lậu, gian lận thương mại và các chính sách có liên quan khác…
Đại diện Tổng cục Thống kê cho biết, phương pháp, số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam đã được cập nhật theo phiên bản 2010 của Liên hợp quốc. Theo Tổng cục Thống kê, không chỉ chênh lệch với thống kê của Việt Nam mà số liệu của Trung Quốc cũng chênh lệch lớn với 5 đối tác ASEAN và các nước đang phát triển khác.